- Chú về đâu?
Khôi từ chối. Anh muốn vào tham quan nơi lưu giữ hồn cốt dân tộc của một người thiếu nữ năm xưa mà anh đang đi tìm sau thời gian dài lãng quên nhưng rồi anh lên ngồi sau yên xe, nhờ bác xe ôm chở anh đến một khách sạn hay nhà nghỉ gần đó.

Thị trấn nhỏ, ngoài đường quốc lộ xuyên qua khu trung tâm đông đúc xe lưu thông, những con đường khác có nhiều bóng cây và vắng vẻ. Khách sạn nhỏ có lẽ không đón nhiều khách vì thị trấn không có các điểm thu hút khách du lịch và xa biển. Nóng! Khôi mới tắm xong đã nghe rin rít mồ hôi trên da thịt, anh nằm dài trên giường nghĩ ngơi mông lung. Tới lúc này, đã đặt chân đến thị trấn này, anh vẫn còn ngạc nhiên vì mình đã vội vã làm một chuyến đi xa. Khôi tìm gì ở đây? Một cơ hội kinh doanh hàng mỹ nghệ trang trí bằng gốm được sản xuất thủ công hay đó chỉ là một cái cớ để anh tìm lại một hình bóng gặp gỡ không nhiều lần rồi chìm vào sương khói mấy mươi năm trước? Một tình cảm lãng mạn và lãng đãng thoáng qua trong mù sương những sớm mai gây lạnh của quê nhà D’Ran, hay tiếng gọi từ sâu thẳm vọng lại trong tiếng còi tàu thổn thức khi con tàu từ ga Tháp Chàm chầm chậm dừng bánh trên sân ga D’Ran? Hay cả hai đều là lý do để anh có mặt ở nơi này?
Chiều qua, Khôi sắp xếp số tranh cũ trong phòng vẽ, anh bắt gặp một kỷ niệm, một ký ức lãng quên nhiều năm: Bức tranh vẽ một người thiếu nữ Chăm ngồi trên sân ga D’Ran, bên cô là mấy cái giỏ lớn đầy các đồ gốm dùng trong việc bếp núc của gia đình. Cô đang nhìn theo con tàu nhả khói trắng xóa trên đường về ga Đà Lạt, vài sợi rơm chèn đồ gốm theo gió tạt vướng trên mái tóc cô vàng óng ả bởi ánh nắng mai hắt ngang mái hiên nhà ga. Bức tranh Khôi vẽ tặng một người thiếu nữ và đã không có dịp trao tặng.
Ở một góc bức tranh, dòng chữ nguệch ngoạc xui anh tìm đến nơi này: “Tặng Mưna- thiếu nữ làng Gọ, Phan Lý Chàm, Bình Thuận”. Làng Gọ! Lâu nay anh có ý tìm kiếm một nơi để đặt hàng gốm mỹ nghệ sản xuất thủ công, sao anh không tìm về làng Gọ? Một công đôi việc! Nghĩ thế nên ngay hôm sau anh vội lên đường.
***
Khôi có thú… ngủ nướng. Anh thức khuya, sáng sớm tơ mơ khoan khoái cuộn mình trong chăn ấm. Khí hậu D’Ran mát lạnh. Bầu trời sớm mai bảng lảng sương mù. Khi chút nắng yếu ớt bám trên ô cửa kính, anh mới choàng dậy làm vệ sinh và thay quần áo đi bộ thể dục. Khôi có thói quen thả bộ ven theo con đường ôm quanh thị trấn, hít thở không khí trong lành và dừng chân ở nhà ga, mường tượng những hàng bánh sắt của con tàu Tháp Chàm – Đà Lạt ma sát trên đường ray ngược lên cao và tiếng còi tàu nặng nhọc rền rỉ, cùng từng cuộn khói trắng hối hả tỏa ra từ đầu máy tàu thổi ngược về phía sau.
Nhiều lần đi bộ thể dục sớm, trước khi đến sân ga, Khôi dừng chân trước một ngôi nhà tường sơn màu trắng, lặng lẽ ngắm các ô cửa cũng sơn màu trắng đóng kín. Anh tưởng tượng người thiếu nữ trạc tuổi anh ở trong ngôi nhà trắng đó, vừa trở mình kéo tấm chăn dầy đắp ngang ngực và dỗ lại giấc mơ. Người thiếu nữ mà anh chỉ đứng nhìn từ xa, rồi phác họa hình ảnh của nàng trên khung vải nhưng không hoàn tất bức tranh.
Vì Khôi bận chú tâm cho một bức tranh khác. Bức tranh chiều qua anh vô tình tìm thấy trong những bức tranh bám bụi xếp tựa vào tường phòng vẽ.
Trên sân ga, Khôi nhấp chậm rãi từng ngụm cà phê nóng. Cà phê pha bằng túi vải kho trong cái siêu đất bắc trên lò than hồng tỏa hương ngào ngạt. Mấy người khách quen thuộc ngồi trên mấy cái ghế thấp quanh lò than cho cảm giác thật thân tình và ấm cúng, bao quanh là hương cà phê tan loãng thật chậm có lẽ vì không khí lạnh. Khôi không góp chuyện với mọi người vì anh còn chăm chú lắng nghe và nôn nóng chờ đợi tiếng còi tàu. Khôi nôn nóng vì tha thiết muốn gặp lại cô gái đã khắc họa trong tâm trí anh một hình ảnh mà anh biết sẽ tái hiện cho một bức tranh đẹp.
Trên bậc lên xuống của một toa tàu, mấy người phụ nữ mặc váy màu chàm đang vội vã chuyển mấy cái giỏ tre đầy đồ gốm xuống sân ga, vừa kịp xong khi tiếng còi tàu vang rền báo hiệu con tàu lăn bánh tiếp tục cuộc hành trình. Rồi họ bám vào thanh sắt bậc lên xuống nhanh nhẹn trở lại toa tàu, trên sân ga còn hai người, một phụ nữ và một cô gái đang ì ạch khiêng mấy cái giỏ vào mái hiên. “Vất vả quá!”. Khôi nghĩ, và anh đến bên người phụ nữ tỏ ý giúp đỡ.
Đỡ giỏ hàng từ tay người phụ nữ, anh cùng cô gái tiếp tục công việc. Xong, Khôi ngồi… thở; còn cô gái không chút mệt nhọc, tiếp tục sắp xếp các đồ gốm trong mấy cái giỏ. Đó là những cái nồi, cái niêu, cà ràng (lò đốt bằng củi), pụ (vò chứa nước), chum, trả… Khi cô gái nghiêng mình, tia nắng ban mai lướt qua mái tóc cô làm lóe sáng óng ả những sợi rơm vàng bám trên mái tóc- những sợi rơm dùng chèn đồ gốm để không vỡ khi vận chuyển. Khôi say mê ngắm gương mặt cô được viền bằng ánh sáng nắng mai dịu êm. Và anh biết mình sẽ có một bức tranh đẹp bởi anh thật sự rung động trước vẻ đẹp thuần khiết quê mùa của cô gái.
Cô thiếu nữ Chăm sống ở làng Gọ, một làng nghề làm các vật dụng dùng trong gia đình bằng đất sét. Làng Gọ thuộc tỉnh khác và qua người bạn mới quen, anh được biết đó là một làng có đa số người dân tộc Chăm sinh sống. Họ làm ruộng, chăn nuôi gia súc có sừng và làm đồ gốm để bán cho nhiều nơi, nhất là ở các vùng nông thôn. Vài ba ngày, họ lại đáp tàu từ ga Tháp Chàm lên D’Ran, Đà Lạt sau khi bán hết hàng. Hai má con cô gái bán sản phẩm gia đình làm ra ở D’Ran và các chợ quanh vùng; còn các người khác mang hàng đến ga Đà Lạt rồi chuyển bán ở các chợ xa.
Mỗi sáng, hai má con thuê xe thồ hàng đi bỏ mối hay bán lẻ ở các chợ. Đêm, họ ngủ nhờ dưới mái hiên nhà ga, bên đống hàng hóa.
Khôi có nhiều buổi chiều trò chuyện với cô gái từ xa đến, sau khi hai má con cô ăn xong bữa cơm đạm bạc bằng cách nấu cơm trong cái nồi đất, kho mấy con cá đồng trong cái trả đặt trên hỏa lò đốt bằng than… Anh tò mò nhìn hai má con lúi húi nấu nướng bằng vật dụng dân dã, trong khi mọi người đã dùng soong nhôm, bếp dầu hỏa. Anh cũng thích thú gợi chuyện cho cô gái hồn nhiên kể về một miền quê và một nghề nghiệp thật xa lạ đối với anh.
-Nhà em nghèo lắm! Ba má em có mấy sào ruộng hà, làm ruộng không đủ lúa ăn một năm đâu! Ba em đánh xe bò đi lấy đất sét tốt ở nơi xa lắm, đi cả ba ngày mới về tới nhà; rồi còn phải đi lấy củi để đốt sản phẩm nữa. Em và má đãi đất, nhào đất rồi ủ đất; xong mới làm cái pụ, cái nồi, cái niêu, cái trả… Đồ gốm làng em có hai cái đặc biệt hơn những nơi khác là người thợ không dùng bàn xoay mà phải đi quanh cái bàn để nặn cục đất sét dẻo thành hàng hóa. Làng em cũng không có lò nung, tất cả sản phẩm làm ra được mang ra xếp ngoài đồng trống, phủ rơm xen kẽ củi khô, chờ gió nổi lên thì châm lửa là… chín sản phẩm.
***
Theo chỉ dẫn của người chủ khách sạn, Khôi đi xe ôm đến làng Gọ cách nơi anh nghỉ vài cây số. Các vật dụng dùng trong bếp núc ở mỗi gia đình làm bằng nhôm cao cấp, i-nốc, thủy tinh từ lâu đã thay thế những vật dụng dân dã ngay ở vùng quê nhưng nghề truyền thống của làng Gọ vẫn tồn tại, những sản phẩm của làng nghề vẫn tỏa đi nhiều vùng nông thôn.
Khôi tìm đến một gia đình làm đồ gốm lâu năm nhất của làng. Trên khoảnh sân rộng, những sản phẩm đã hoàn tất được xếp thành từng dãy dài phơi ánh nắng chờ đem ra bãi đốt chín. Ánh nắng phớt qua đọng lại trên sản phẩm nhiều sắc độ bởi sự lay động nhẹ nhàng của những cơn gió làm run rẩy những tàu lá hàng cau ranh vườn.
Cô thợ đi quanh cái bàn thấp, hai bàn tay thoăn thoắt nhào nặn cục đất sét nhuyễn. Cô ngắt miếng đất thừa đắp vào chỗ khuyết hay dùng thanh dao tre gọt nhẵn chỗ gồ ghề nhưng không ngừng trò chuyện với người khách tò mò.
- Dân làng cháu chỉ lấy công làm lời thôi chớ mọi thứ bây giờ đắt đỏ lắm; từ đất sét, củi khô đến công cán, rồi vận chuyển… Gần đây hàng hóa ế ẩm vì người ta dùng đồ nhôm, đồ i-nốc càng nhiều…
Khôi chăm chú nhìn cô gái cần mẫn, hình dung Mưna của mấy mươi năm về trước nhanh nhẹn bẻ cục đất sét, tay thoăn thoắt nhào nặn, đi quanh cái bàn, rồi hài lòng ngắm nghía sản phẩm vừa hoàn thành. Bao nhiêu người phụ nữ Chăm theo chế độ mẫu hệ được mẹ truyền nghề làm đồ gốm đã đi quanh cái bàn nghề như thế này trong tầng tầng lớp lớp thời gian, để phát triển và bảo tồn một nghề thủ công truyền thống của dân tộc mình trong một xã hội hàng hóa công nghiệp ngày càng phong phú và dư thừa.
Khôi dọ ý:
- Ông muốn đặt làm một số mặt hàng trang trí trong nhà, ngoài vườn như bình bông, chậu bông, con cá, mặt nạ, chụp đèn…Cháu có thể giúp ông không?
Cô gái không tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Trước đây cũng có người đặt cháu làm các mặt hàng trang trí. Ông vẽ kiểu và cho kích thước là cháu làm được.
Khôi vui vẻ:
- Chắc chắn ông sẽ ký hợp đồng với cháu, nhưng… cháu biết vì sao ông biết đến làng Gọ này không?
Khôi muốn bày tỏ với cô gái một nguyên nhân khác về sự có mặt của mình.
- Năm xưa, ông có gặp một thiếu nữ mười lăm mười sáu tuổi, trạc tuổi cháu, ở làng này đem hàng hóa đến ga D’Ran…
Cô gái ngừng tay, ngước nhìn mái tóc phai màu của người khách, hỏi:
- Năm đó, ông bao nhiêu tuổi?
- Ông lớn hơn cô gái đó khoảng năm, sáu tuổi.
- Vậy ông chờ má cháu đi chợ về, ông hỏi, họa may má cháu biết được…
Khôi không nghĩ là mình phải tìm được Mưna, vì nếu người đó còn sống và nếu gặp nhau, anh có nhận ra một… lão bà, bởi cô gái năm xưa cũng đã xấp xỉ bảy mươi tuổi. Anh chỉ đang tìm kiếm một kỷ niệm vô cùng đẹp đẽ của một thời thơ dại nhiều lãng mạn.
Người mẹ từ chợ về, bà mời Khôi vào nhà trong. Sau khi nghe anh kể vắn tắt câu chuyện, đôi mắt đen láy của người mẹ sáng lên, bà run giọng hỏi:
- Ông là… họa sĩ?
Một luồng điện truyền khắp người Khôi, anh lúng túng:
- Tôi chỉ tập vẽ chân dung.
Người mẹ nhìn Khôi im lặng, rồi bà chỉ lên bức hình chân dung treo trên tường.
- Người mà ông gặp ở sân ga D’Ran là mẹ tôi. Bà có kể cho tôi nghe chuyện được một họa sĩ vẽ mình ngồi trên sân ga. Bà đã mất hơn mười năm rồi.
Khôi còn bàng hoàng về sự gặp gỡ tưởng chừng không có thật thì người mẹ mở tủ, lấy ra một xấp giấy tờ trong cái hộp sắt vốn là hộp bánh. Bà chọn trong xấp giấy tờ, đưa cho anh một tờ giấy dầy cỡ hai trang vở. Trong ánh sáng của bóng đèn vừa được người mẹ bật lên, anh nhìn thấy Mưna e thẹn nhìn mớ đồ gốm cô vừa lấy ra khỏi cái giỏ lớn, vài sợi rơm vàng óng ả dưới ánh nắng mai lơ lửng quanh cô, có sợi bám vào mái tóc nghiêng chảy của cô.
Đó là bức phác thảo bằng chì Mưna trên sân ga năm xưa mà Khôi tặng cô. Anh còn hứa tặng cô một bức tranh có đóng khung hẳn hoi nhưng rồi không còn dịp, vì sau đó tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm – Đà Lạt không còn hoạt động. Những người phụ nữ Chăm mặc váy dài màu chàm và Mưna không còn mang đồ gốm lên bán ở các chợ vùng cao.
Khôi nhìn người mẹ Chăm, nhìn cô gái đang thao tác quanh bàn nghề đồ gốm, thấy mơ hồ dáng dấp của Mưna trong hai hậu duệ của mình; và nghe mơ hồ tiếng còi tàu thổn thức trong màn sương khói tỏa mênh mông…
Khôi hứa với cô cháu của Mưna ngày hôm sau sẽ trở lại với những phác thảo các vật trang trí mà anh sẽ hợp đồng cho cô sản xuất thủ công bằng gốm làng Gọ. Anh biết mình sẽ còn được nhiều lần trở lại với không gian phảng phất hình ảnh của Mưna qua cô cháu gái hàng ngày cần mẫn sản xuất không chỉ các vật dụng bếp núc, mà cả những mặt hàng gốm mỹ nghệ dùng để làm đẹp cuộc sống.