Ngày về La Gi đúng thời điểm gió Tây Nam trở về, chúng tôi ra biển ngồi quán cà phê nhìn gió thổi cát bay. Nhớ 30 năm trước những cơn gió này đã thổi xác thầy Hộ về với bà con nằm chờ dưới gốc dương xanh. Nơi thầy đã từng dẫn học trò đi dọc biển quê mình để giải thích thế nào là vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế. Ở thị xã bé nhỏ này, những ai theo học cấp III từ đầu thập niên 70 đến giữa thập niên 90 của thế kỷ trước đều ngưỡng mộ ông thầy dạy sử Lê Văn Hộ. Một ông thầy vui tính tận tâm với nghề và hết lòng với học trò, tiết dạy của thầy là giờ của những đôi mắt long lanh hau háu tìm về cha ông, một thời chân trần mang gươm đi mở đất.
Người viết bài này từng là học trò của thầy thời chế độ cũ. Ngày ấy trong giờ sử chúng tôi học được nhiều thứ, vì sử địa là đất đai, biên cương, núi rừng, biển cả là hồn cốt của một dân tộc có thăng có trầm. Mỗi lần thầy Hộ đứng lớp gần như không vắng em nào, có khi lớp kế bên trống giờ cũng chen vào ngồi tìm kiếm kiến thức. Lối giảng bài của thầy hấp dẫn, mở rộng bởi theo thầy, học sử để nhớ về hồn nước nhớ đến tiền nhân. Trong giờ dạy, thầy vừa nói vừa cầm viên phấn phác thảo ngay vị trí địa lý, sông ngòi, núi non… bất kỳ một quốc gia nào đó trên thế giới một cách sống động. Ngày ấy chúng tôi tưởng tượng quả đất này nằm trong vòng tay của thầy. Qua mỗi tiết học, chúng tôi biết thêm những câu thơ đầy thi vị, những huyền sử ly kỳ.
Là giáo viên dạy sử nhưng khi trả bài thầy thường kiểm tra kiến thức để lấy điểm ghi vào sổ. Ví dụ thầy hỏi: “Ai là người đứng ra giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933. Ai đọc được hai câu thơ lãng mạn của thời kỳ 1932-1942….?”. Học trò ai nói trúng được 10 điểm. Thầy rất hào phóng điểm 10 cho những học sinh có kiến thức rộng.
Thế hệ học trò sau năm 1975 ở La Gi vẫn nhớ hình ảnh ông thầy hàng tuần thong thả trên chiếc xe đạp, gò lưng lên con dốc Đồng Tiến đến trường, nhớ nụ cười hờ hững nhưng giao tiếp chân tình. Vào thời điểm những năm 80, cách giảng bài giàu hình tượng, mang tính gợi ý của thầy thường bị nâng quan điểm “đá bóng lộn sân”, đôi khi bị kiểm điểm “lên bờ xuống ruộng”.
Anh Phan Chính, một người bạn khá thân với thầy kể: “Cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 1989-1994, anh được chọn làm ứng cử viên. Ai cũng nói chắc chỉ làm quân xanh, chứ đưa một ông giáo trơn không Đảng vào hội đồng đứng dưới một ông đầy huy chương khó mà trúng cử. Vậy mà kết quả cử tri dồn phiếu cho thầy khá cao rồi trở thành đại biểu HĐND tỉnh Bình Thuận kiêm thư ký đoàn cho đến ngày mất”.
Ngày rời quân ngũ, tôi mò đến thăm thầy không quà cáp. Gặp tôi thầy mừng, được dịp tôi trải lòng như người em út: “Thầy ơi! Tuy em là sĩ quan quân đội, nhưng em không thích chọn binh nghiệp làm nghề, em muốn đi học lại nhưng không biết bắt đầu từ đâu!”. Thầy trầm ngâm rồi tư vấn: “Đất nước mình sẽ phải đổi mới để hội nhập quốc tế, tiếng Pháp của mầy giỏi rất dễ cộng hưởng với ngôn ngữ khác, mầy nên thi vào Trung tâm Anh ngữ Đại học Nông lâm ở Thủ Đức học lấy bằng TOEFL (Test of English as Foreign Language) để làm phiên dịch cho công ty nước ngoài”. Thầy xé một tờ lịch viết tốc ký giới thiệu cho con gái đang ở Sài Gòn để giới thiệu với bác sĩ tiến sĩ Đồ Hồng Ngọc, thầy viết: “Mê Linh con! Đây là anh Trần Đại, học trò có uy tín của ba. Con giới thiệu với cậu Ngọc hướng dẫn cho anh ấy vào Trung tâm Nông Lâm...”. Một năm sau tôi thi TOEFL được 500 điểm mở đầu cho một người lính trong thời hội nhập. Công ơn đó bây giờ tôi vẫn nhớ. Ngày thầy mất tại cửa biển sông Dinh, lúc tôi đang ở Sài Gòn. Nhận được tin báo của Trần Đình Tưởng và Khương Thanh Đạm, tôi bàng hoàng, ầng ậng nước mắt không tin và không tin đến tận bây giờ.
Mới đây, tôi về lại Sài Gòn tìm gặp vợ thầy, cô Đỗ Thị Hồng Sương cũng là cô giáo cũ của tôi dạy môn vạn vật trước năm 75, cô Sương bây giờ đã trên 70 tuổi. Sau ngày thầy mất, cô theo con về Sài Gòn sinh sống và cũng để nguôi ngoai một thời hạnh phúc sớm hôm chồng vợ có nhau. Cô ngậm ngùi kể: “Ngày 23/10/1994, lực lượng biên phòng La Gi phát hiện có tàu Đài Loan xâm phạm hải phận Việt Nam đang trú tại Hòn Bà. Ban chỉ huy đồn biết thầy nói được tiếng Anh - Pháp - Hoa nên nhờ đi phiên dịch. Hôm ấy là ngày gió Tây Nam thổi về rát mặt. Nhưng tính thầy chắc em biết, mỗi khi có người lạ vào đất nước mình trái phép thầy giãy “như đỉa phải vôi”. Với tư cách là một trí thức trong đất nước có chủ quyền, thầy mặc áo đẹp mang giày da để làm việc với họ. Nhưng đó là ngày thầy em trở về với biển. Vì cơn bão ập vào gió cấp 9 cấp 10 sóng cao 5 m đánh chìm cả ghe…”. Cô bật khóc, tiếng khóc của một trí thức góa phụ cũng là cô giáo của mình khiến nước mắt của tôi trào ra, mặc dầu bây giờ cô trò không ai còn trẻ trung nữa. Cô tiếp tục: “Lúc nghe tin sóng biển đánh chìm ghe, đêm ấy học trò của cả cô và thầy đốt đuốc sáng đêm đi dọc bờ để tìm xác. Cô vẫn nhớ ngày đưa tang mưa dầm, nhưng đoàn người đến tiễn thầy kéo dài cả cây số trong mưa gió bão bùng. Nghe nhiều người La Gi nói rằng: Đây là buổi biệt ly lớn nhất và buồn nhất của thị xã mình”.
Năm thầy Hộ mất ở tuổi 49. Người ta thường nói tuổi của vận hạn. Thầy sinh năm đói Ất Dậu 1945 và chết cũng năm Dậu 1994. Quê thầy ở Đại Nẫm vùng ngoại ô Phan Thiết, mồ côi cha, nhà nghèo nhưng thầy đậu tú tài hạng bình ban toán. Năm 1968, vì mê Tướng Giáp nên theo khoa sử Đại học Sư phạm Sài Gòn, rồi tiếp tục ghi danh Đại học Văn khoa để lấy bằng cử nhân - cao học. Mười tám năm trên bục giảng với bộ môn yêu thích, thầy đã gieo mầm vào bộ não thế hệ trẻ La Gi về bút pháp lạ, về non sông gấm vóc của cha ông mình trong những thời hoa và lửa.
Như trở thành thông lệ, khi thời điểm mùa gió Tây Nam thổi về, những người thân quen và học trò cũ lại nhớ NGƯỜI về với biển, mỗi người có những cái nhớ về thầy từng mỗi giai thoại dễ thương. Hình như con người có số, có lẽ thầy Hộ biết mình về với đất nên chụp một tấm ảnh đẹp và làm bài thơ Hát khúc bình yên, thầy viết: “Chẳng phải hướng dương, chẳng phải lài/ Hoa đồng cỏ nội sống khoan thai/ Văn năm bảy chữ hơ hồn trẻ/ Sử sách vài chương gợi sức trai/ Có nước có nhà và có vợ/ Cho mình cho bạn cả cho ai/ Dế ơi! điệp khúc ngôn trường tận/ Ta ngáy thường tình mây gió bay”. Và đoạn cuối, thầy viết: “Nếu một mai ta chết, vợ con và người thân nếu có điều kiện khắc bài thơ trên để treo thờ thay tấm vãn hoặc có điều kiện hơn, khắc ở bia mộ càng hay”.
Chiều nay, tôi đứng bên ngôi mộ của thầy giữa không gian bàng bạc ở nghĩa trang Tân An (La Gi). Tuy là một sĩ quan quân đội đã trải nghiệm một thời súng đạn nhưng đọc lại những câu thơ của thầy đã mòn bởi gió bụi thời gian nhưng nước mắt trào ra. Trong khói hương nghi ngút tỏa lên trước mộ thầy của đứa học trò cũ xa quê, tôi hình tượng vong linh thầy đang chập chờn theo màu tím chiều hoang biền biệt. Ngày rời phố biển La Gi khi gió biển từ Trường Sa lồng lộng thổi về rát mặt, tôi biết ở tiền đồn Tổ quốc giữa biển khơi ấy đang còn dậy sóng nhưng ở lòng biển, lòng đất đang vang lên tiếng nói của Bác Hồ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.