Văn hóa Chăm ở Bình Thuận
Bình Thuận là địa phương tập trung nhiều đồng bào Chăm sinh sống, với hơn 41.000 người, theo 2 tôn giáo là Bàlamôn (gần 26.000 người) và Hồi giáo (Bàni) (hơn 15.000 người). Hằng năm, đồng bào Chăm Bình Thuận tổ chức nhiều lễ hội, trong đó có 2 Lễ hội lớn là lễ hội Ramưwan (30/3 chăm lịch và kéo dài 1 tháng) của người Chăm Bàni và Lễ hội Katê (1/7 chăm lịch và kéo dài 1 tháng) của người Chăm Bàlamôn.
Lễ hội Katê. Ảnh: Đ.H |
Ramưwan là lễ hội lớn và có ý nghĩa nhất trong hệ thống lễ hội của người Chăm Bàni... Tết Ramưwan là dịp để con cháu, những người còn sống nhớ đến tổ tiên, các đấng sinh thành và cầu nguyện cho làng xóm được bình yên, nhà nhà sung túc, người người được an lành, hạnh phúc, mùa màng tươi tốt. Trong những ngày này dù làm gì, ở đâu và bận rộn đến mấy chăng nữa, thì những người Chăm Bàni vẫn dành thời gian về quê, quây quần cùng gia đình và người thân.
Katê là lễ hội mang ý nghĩa tưởng nhớ tổ tiên và cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng thuận lợi. Katê còn mang ý nghĩa phồn thực, cầu mong cho sự hòa hợp lứa đôi, sự sinh sôi nảy nở của con người và vạn vật. Đây là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của cộng đồng người Chăm. Lễ hội không chỉ gắn với đền tháp cổ kính - nơi lưu giữ những giá trị kỹ thuật và mỹ thuật cao nhất của nền văn hoá Chăm mà còn gắn tới lĩnh vực khác của văn hóa: đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ; những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với nước với dân. Lễ hội còn là dịp để những người tham dự được thưởng thức một nền nghệ thuật ca - múa - nhạc dân gian với phong cách độc đáo. Những người tham dự lễ hội được hoà cùng điệu múa của các thiếu nữ Chăm, say sưa cùng tiếng trống Gi năng, kèn Saranai. Lễ hội Katê là minh chứng về sự phong phú, đa dạng trong kho tàng văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đây là hai lễ hội lớn được đông đảo người dân trong nước nói chung và ở Bình Thuận nói riêng biết đến vì nó mang tính truyền thống và thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa Chăm.
Giữ gìn và phát triển
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài dòng chảy này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Chăm. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
Vì vậy giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của từng dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có dân tộc Chăm đóng vai trò quan trọng trong việc nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý luận của Đảng nhằm xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
Hồng Hiếu